Luật sư giỏi tại Hà Nội
Chủ Nhật, 27 tháng 3, 2016
Chủ Nhật, 11 tháng 10, 2015
Thứ Tư, 7 tháng 10, 2015
Thứ Năm, 9 tháng 7, 2015
MobiFone không tôn trọng khách hàng, vi phạm nghiêm trọng luật Dân sự?
MobiFone không tôn trọng khách hàng, vi phạm nghiêm trọng luật
Dân sự?
(PLO) - Sau khi PLVN đã có bài viết phản ánh tình trạng tự ý
kết nối gia hạn, trừ tiền của khách, ngày 02/07 Đại diện MobiFone đã đổ lỗi cho
các đối tác. Liệu MobiFone có thực sự vô can?
Để làm rõ hơn trách
nhiệm của MobiFone khi để khhác hành bị ảnh hưởng, phóng viên PLVN đã có cuộc
trao đổi với luật sư Nguyên Minh Long – Giám đốc Công ty luật Dragon (Đoàn luật
sư thành phố Hà Nội).
-Thưa ông, như các bài viết phản ánh trên PLVN về việc khách
hành bị nhà mạng MobiFone tự ý kết nối dịch vụ gia tăng, tự ý trừ tiền. theo
ông, hành vi đó có vi phạm pháp luật không?
Về bản chất, cần xác định tin nhắn mời sử dụng dịch vụ của
MobiFone có phải là lời đề nghị giao kết HĐ theo Điều 390 BLDS 2005 không? Điều
390 quy định “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp
đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được
xác định cụ thể”.
Trường hợp tin nhắn của MobiFone gửi đến khách hàng là loại
tin nhắn đồng loạt và không xác định cụ thể đối tượng khách hàng là ai. Trường
hợp này, cần xác định đây không phải là đề nghị giao kết hợp đồng.
Hành vi Mobifone “tự ý kết nối” được xem là hành vi pháp lý
đơn phương. Khách hàng sẽ không chịu bất cứ ràng buộc pháp lý nào với MobiFone;
trong việc sử dụng dịch vụ.
Trường hợp thứ hai, tin nhắn mời sử dụng dịch vụ có xác định
cụ thể thuê bao (VD nêu cụ thể số điện thoại thuê bao, tên chủ thuê bao đã đăng
ký… ) thì đề nghị giao kết hợp đồng này cũng không có giá trị khi hết thời hạn
vì:
Theo Khoản 2 Điều 394 BLDS 2005 quy định đề nghị giao kết hợp
đồng chấm HĐ khi “Hết thời hạn trả lời chấp nhận”. Do đó, khách hàng không phản
hồi bằng tin nhắn theo cú pháp thì đương nhiên, giao kết sử dụng dịch vụ sẽ
không được xác lập. MobiFone không có quyền “tự ý kết nối” dịch vụ thay khách
hàng.
Sự im lặng của khách hàng – khi không nhắn tin theo cú pháp
xác nhận, đương nhiên không được xem là sự đồng ý sẽ sử dụng dịch vụ. Khoản 2
Điều 404 BLDS 2005 quy định “Hợp đồng dân sự cũng xem như được giao kết khi hết
thời hạn trả lời mà bên nhận được đề nghị vẫn im lặng, nếu có thoả thuận im lặng
là sự trả lời chấp nhận giao kết”.
Rõ ràng rằng, giữa khách hàng và MobiFone không tồn tại thỏa
thuận “sự im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết”. Tương tự như trường hợp
trên, đối tác của Mobifone cũng không được “tự ý kết nối” dịch vụ.
Như vậy, việc đối tác của MobiFone tự ý kết nối dịch vụ cho
khách hàng đã vi phạm nguyên tắc cơ bản của giao dịch dân sự là sự tự nguyện
(Điểm c, Khoản 1 Điều 122 BLDS 2005).
Ngoài ra, hành vi này còn có dấu hiệu vi phạm quyền tự định
đoạt của người tiêu dùng “Lựa chọn hàng hóa, dịch vụ, tổ chức, cá nhân kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ theo nhu cầu, điều kiện thực tế của mình; quyết định
tham gia hoặc không tham gia giao dịch và các nội dung thỏa thuận khi tham gia
giao dịch với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ” (Khoản 3 Điều 8 Luật
Bảo vệ người tiêu dùng 2010).
Và các hành vi bị cấm tại Khoản 5 Điều 10 Luật Bảo vệ người
tiêu dùng 2010 “Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ yêu cầu người
tiêu dùng thanh toán hàng hóa, dịch vụ đã cung cấp mà không có thỏa thuận trước
với người tiêu dùng”.
- Nếu những hành vi đó do đối tác của MobiFone, thì trách
nhiệm của MobiFone đến đâu?
Theo nội dung tin nhắn khách hàng nhận được thì dịch vụ được
xác nhận là do MobiFone cung cấp. Như vậy, trong mối quan hệ cung cấp dịch vụ
trên; MobiFone được xác định là một bên trong giao dịch. Do vậy, về nguyên tắc
MobiFone phải chịu trách nhiệm trực tiếp với khách hàng.
- Người tiêu dùng phát hiện bị trừ tiền, sau đó được hoàn trả
đúng số tiền đó, theo ông như vậy có thỏa đáng?
Về nguyên tắc, giao dịch “tự ý kết nối” sử dụng dịch vụ của
MobiFone là vô hiệu. Việc MobiFone hoàn trả đúng số tiền đã bị trừ cho khách
hàng là hợp lý, đúng theo tinh thần của pháp luật.
Như đã phân tích ở trên; có thể nhận thấy hành vi của
MobiFone đã có dấu hiệu vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng. Do vậy, theo Khoản
2 và 3 Điều 26 Luật Bảo vệ người tiêu dùng 2010 thì MobiFone còn có thể chịu
thêm các biện pháp xử lý như sau:
Biện pháp xử lý vi phạm hành chính, nếu có; Biện pháp khắc
phục hậu quả bao gồm: Buộc tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thu hồi,
tiêu hủy hàng hóa hoặc ngừng cung cấp hàng hóa, dịch vụ; Đình chỉ hoặc tạm đình
chỉ hoạt động kinh doanh của tổ chức, cá nhân vi phạm; Buộc tổ chức, cá nhân
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ loại bỏ điều khoản vi phạm quyền lợi người tiêu
dùng ra khỏi hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung.
-Rất nhiều người tiêu dùng bị ảnh hưởng, nhưng với cá nhân một
khách hàng số tiền đó quá nhỏ, họ chung tâm lý ngại kiện tụng, theo ông, người
tiêu dùng cần làm gì để bảo vệ quyền lợi của mình?
Để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng nói chung và người
tiêu dùng MobiFone nói riêng, nhà nước đã xây dựng hành lang pháp lý vững vàng
bằng việc ban hành Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 và các văn bản hướng
dẫn liên quan.
Ngoài ra, tại văn bản pháp luật chuyên ngành, tại Điều 16 và
Điều 33 Luật viễn thông 2009 cũng quy định cụ thể về quyền của người sử dụng dịch
vụ viễn thông và nghĩa vụ của doanh nghiệp viễn thông. Như vậy, về mặt pháp lý
người tiêu dùng được pháp luật bảo vệ và họ hoàn toàn có cơ sở để đấu tranh bảo
vệ quyền lợi của mình.
Do vậy, quan điểm cá nhân tôi thì vấn đề cốt lõi trong việc
bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng phải xuất phát từ chính bản thân người
tiêu dùng. Hãy là những người tiêu dùng thông thái, hiểu biết về quyền lợi mình
và chủ động bảo vệ nó.
-Theo ông, Luật pháp cần phải điều chỉnh như thế nào để bảo
vệ người tiêu dùng trong bối cảnh các nhà mạng thiếu tôn trọng khách hàng như
hiện nay?
Hệ thống pháp luật nước ta là hệ thống pháp luật thành văn.
Do vậy, hệ thống pháp luật nói chung còn có những hạn chế nhất định như không
theo kịp sự phát triển mạnh mẽ của xã hội. Tuy nhiên, nhìn vào mặt tích cực thì
cơ bản quyền lợi của người tiêu dùng đã được pháp luật ghi nhận, bảo vệ. Khi
khách hàng nhân thấy sự thiếu tôn trọng từ các nhà mạng, khách hàng hoàn toàn
có thể liên kết, đấu tranh bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình.
-Xin cảm ơn luật sư!
Chuyên mục Bạn đọc của Báo Pháp luật Việt Nam tiếp nhận tất
cả những đơn thư phản ánh, khiếu nại, tố cáo của độc giả có căn cứ và theo đúng
quy định của pháp luật...Chúng tôi sẽ hồi âm sớm nhất đến bạn đọc.
Mọi kiến nghị, phản ánh qua hòm thư:
baodientuphapluat@gmail.com
Luật sư Nguyễn Minh Long - Giám đốc Công ty luật Dragon
Điện thoại tư vấn pháp luật giờ hành chính: 04. 22. 007. 888
Website: www.congtyluatdragon.com / www.congtyluatdragon.vn
https://www.facebook.com/vanphongluatsudragon?ref=hl
Thứ Hai, 15 tháng 6, 2015
Ông Nguyễn Thanh Chấn còn được bồi thường thêm hơn 1 tỷ đồng?
Trong vấn đề bồi thường án oan cho ông Nguyễn Thanh Chấn, hiện vẫn khoản bồi thưởng tổn thất tinh thần chưa được thống nhất.
Mới
đây, nói về vấn đề bồi thường vụ án oan của ông Nguyễn Thanh Chấn,
huyện Việt Yên, Bắc Giang), Chánh án TAND Tối cao Trương Hòa Bình cho
biết, cơ quan chức năng đã xin lỗi và thương lượng bồi thường. Thông tin
của Chánh án TAND Tối cao cho biết, ông Chấn cũng đã đồng ý mức bồi
thường 7,2 tỷ đồng và đang làm thủ tục để chi trả.
Theo ông Thân Văn Hoạt –
người đại diện pháp lý của ông Nguyễn Thanh Chấn, số tiền 7,2 tỷ đồng
bồi thường cho những tổn thất, thiệt hại do án oan gây ra đối với gia
đình, vợ con, mẹ của ông Nguyễn Thanh Chấn.
Tuy nhiên, ông Hoạt cho
biết, giữa cơ quan tố tụng và gia đình người bị án oan Nguyễn Thanh
Chấn vẫn chưa thống nhất được khoản tiền bồi thường tổn thất tinh thần
của ông Chấn sau 10 năm ngồi tù oan sai. Cơ quan tố tụng dựa trên một số
quy định đưa ra mức bồi thường gần 600 triệu đồng, tuy nhiên gia đình
cho rằng, mức bồi thường đó không còn phù hợp với thực tế cuộc sống hiện
nay.
Liên quan đến khoản
tiền bồi thường về tổn thất tinh thần của ông Nguyễn Thanh Chấn, VOV.VN
phỏng vấn luật sư Nguyễn Minh Long - Giám đốc Công ty Luật Dragon.
PV: Theo luật sư, yêu bồi thường tổn thất tinh thần của ông Nguyễn Thanh Chấn sẽ được tính như thế nào?
Luật sư Nguyễn Minh Long: Theo Điều 47, Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước quy định như sau:
- Thiệt hại do tổn thất
về tinh thần trong trường hợp bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt
tù được xác định là 3 ngày lương tối thiểu cho 1 ngày bị tạm giữ, tạm
giam, chấp hành hình phạt tù.
- Thiệt hại do tổn thất
về tinh thần trong trường hợp sức khoẻ bị xâm phạm được xác định căn cứ
vào mức độ sức khoẻ bị tổn hại nhưng không quá 30 tháng lương tối
thiểu.
Luật sư Nguyễn Minh Long |
Do vậy, ông Chấn sẽ nhận được các khoản đền bù về tinh thần sau:
- Ông Nguyễn Thanh Chấn
phải chịu hình phạt tù khoảng 10 năm tương đương với 3.650 ngày x 3 x
92.307 đồng (1 ngày lương tối thiểu cho khu vực III nơi ông Chấn sinh
sống) = 1.010.761.000 đồng.
- Tổn thất về tinh thần
trong tình trạng sức khỏe bị xâm phạm trong 10 năm ngồi tù: 30 x
2.400.000 = 72.000.000 đồng (mức lương tối thiểu khu vực III).
Vậy tổng số tiền tổn thất về tinh thần ông Chấn có thể nhận hơn 1 tỷ đồng.
Đối với vấn đề bồi thường thiệt hại
trong oan sai, phải mang tính có lợi cho người được bồi thường. Việc
tính tiền bồi thường phải tính thời giá tại thời điểm tiến hành bồi
thường, nếu như không có văn bản hướng dẫn vấn đề bồi thường trước đó.
PV: Tính
đến thời điểm này, hai bên đã thống nhất mức bồi thường khoảng 7,2 tỷ
đồng. Theo luật sư, đây có phải là số tiền bồi thường kỷ lục trong lịch
sử tố tụng của Việt Nam?
Luật sư Nguyễn Minh Long: Hiện tại số tiền bồi thường cho ông Nguyễn Thanh Chấn nhận được đang là một kỷ lục trong lịch sử tố tụng Việt Nam. Tuy nhiên, ông Chấn không phải là trường hợp duy nhất được bồi thường oan sai với số tiền rất lớn do sai phạm của các cơ quan chức năng.
Báo cáo trước Quốc hội
ngày 5/6/2015 về tình hình oan sai và việc bồi thường thiệt hại cho
người bị oan, Chủ nhiệm Uỷ ban Tư pháp Nguyễn Văn Hiện cho biết, trong
219.500 vụ án với hơn 338.000 bị can bị khởi tố, điều tra trong 3 năm
qua có 71 trường hợp được xác định vô tội.
Có những vụ án đã xảy
ra 7-10 năm, thậm chí tới 16 năm nhưng gần đây mới được phát hiện có dấu
hiệu oan sai. Vì thế nhiều khả năng sẽ còn có những kỷ lục mới về số
tiền bồi thường oan sai.
PV: Vậy khi nào ông Nguyễn Thanh Chấn có thể nhận được tiền bồi thường, thưa luật sư?
Luật sư Nguyễn Minh Long:
Theo Điều 52 Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước, trường hợp cơ
quan Trung ương có trách nhiệm bồi thường thì kinh phí bồi thường được
bảo đảm từ ngân sách Trung ương.
Trường hợp cơ quan địa phương có trách nhiệm bồi thường thì kinh phí bồi thường được bảo đảm từ ngân sách địa phương.
Theo quy định trên, đối
với trường hợp của ông Nguyễn Thanh Chấn, TAND Tối cao là đơn vị xét xử
gây án oan nên kinh phí bồi thường do Bộ Tài chính chi trả.
Vợ chồng ông Nguyễn Thanh Chấn trong ngày được xin lỗi công khai |
Luật này quy định trong
thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày bản án, quyết định giải quyết bồi
thường có hiệu lực pháp luật, cơ quan có trách nhiệm bồi thường phải
chuyển ngay hồ sơ đề nghị bồi thường đến cơ quan tài chính cùng cấp.
Trong thời hạn 5 ngày
làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ, cơ quan nhận được hồ sơ có trách
nhiệm kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ đề nghị bồi thường để cấp kinh phí
hoặc có văn bản gửi cơ quan tài chính cùng cấp đề nghị cấp kinh phí bồi
thường.
Trường hợp hồ sơ chưa
hợp lệ thì hướng dẫn cơ quan có trách nhiệm bồi thường bổ sung hồ sơ
hoặc sửa đổi, bổ sung quyết định giải quyết bồi thường. Thời hạn bổ sung
hồ sơ không quá 15 ngày.
Trong thời hạn 10 ngày,
kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị bồi thường hợp lệ, cơ quan tài chính
có thẩm quyền cấp kinh phí cho cơ quan có trách nhiệm bồi thường để chi
trả cho người bị thiệt hại.
Sau khi nhận được kinh
phí do cơ quan tài chính cấp, trong thời hạn 5 ngày làm việc, cơ quan có
trách nhiệm bồi thường phải thực hiện việc chi trả bồi thường cho người
bị thiệt hại hoặc thân nhân của người bị thiệt hại.
Như vậy, kể từ ngày
quyết định giải quyết bồi thường đối với ông Nguyễn Thanh Chấn có hiệu
lực pháp luật, chậm nhất là sau 40 ngày làm việc, ông Chấn phải được
nhận tiền bồi thường.
PV: Xin cảm ơn luật sư./.
Nội dung vụ án:
Vụ
án oan của ông Nguyễn Thanh Chấn xảy ra vào năm 2003. Khi đó tại thôn
Me, xã Nghĩa Hưng, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang xảy ra vụ án giết chị
Nguyễn Thị Hoan.
Cơ
quan cảnh sát điều tra đã bắt ông Chấn và cho rằng ông này là hung thủ
của vụ án. Tại hai phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm sau đó, mặc dù ông
Chấn hết sức kêu oan nhưng vẫn bị quy tội Giết người và chịu mức án
chung thân.
Cuối năm 2013, khi hung thủ gây án là Lý Nguyễn Chung ra đầu thú, ông Chấn chính thức được minh oan.
Tháng 4 vừa qua, Tòa Phúc thẩm – TAND Tối cao cũng đã tổ chức xin lỗi công khai ông Nguyễn Thanh Chấn tại địa phương.
Về phần ông Chấn, sau khi được minh oan, gia đình và người thân bắt đầu hành trình đòi bồi thường án oan sai.
Gia đình ông Chấn đưa mức yêu cầu đòi bồi thường 9,3 tỷ đồng./.
Việt Đức/VOV.VN
Luật sư giỏi Hình Sự : http://www.vanphongluatsu.com.vn/luat-su-bao-chua/
Thứ Sáu, 15 tháng 5, 2015
Hoạt động chứng minh của luật sư trong tố tụng hình sự
Để hoạt động bào chữa của luật sư
đạt hiệu quả thì không thể thiếu hoạt động chứng minh quan điểm pháp lý
để thuyết phục cơ quan tiến hành tố tụng (CQTHTT) chấp nhận đề xuất,kiến
nghị của luật sư .Hoạt động chứng minh của luật sư được thực hiện thông
qua hoạt động thu thập ,đánh giá và sử dụng chứng cứ của luật sư .tuy
nhiên hiện nay ,do vướng mắc ,bất cập của các quy định pháp luật về
chứng cứ đã ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động bào chữa của luật sư
Thực hiện quyền bào chữa trong tố tụng
hình sự tiếp cận dưới góc độ thực hiện quyền bào chữa (hoạt động bào
chữa)của chủ thể bào chữa ,trong đó hoạt động bào chữa của luật sư là
đạt hiệu quả nhất bởi lẽ luật sư là người bào chữa chuyên nghiệp ,được
đào tạo bài bản .Điều 10 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS)hiện hành quy
định “trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về CQTHTT ,bị can bị cáo có
quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội” trên thực tế để
hoạt động bào chữa đạt hiệu quả thì hoạt động chứng minh vô cùng cần
thiết ,là yếu tố quyết định hiệu quả của hoạt động bào chữa .Để bào chữa
có hiệu quả ,trong mọi trường hợp luật sư phải dựa vào quy định pháp
luật tố tụng hiện hành ,dựa vào chứng cứ để chứng minh tính đúng đắn về
căn cứ pháp lý của quan điểm bào chữa mới có tính thuyết phục ,chẳng hạn
luật sư bào chữa theo hướng xác định thân chủ vô tội thông qua việc đưa
ra bằng chứng ngoại phạm …bởi lẽ nếu chỉ đề xuất ,kiến nghị bảo vệ
người bị buộc tội mà không dựa vào chứng cứ để chứng minh cơ sở pháp lý
thì không có tính thuyết phục .do đó nghiên cứu hoạt động chứng minh của
luật sư có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm hiệu quả hoạt động bào
chữa của luật sư trong tố tụng hình sự
Đặc điểm hoạt động bào chữa của luật sư trong tố tụng hình sự
Chứng cứ là cơ sở hàng đầu để CQTHTT
chứng minh vụ án hình sự ,luật sư cũng chứng minh quan điểm bào chữa của
mình thông qua chứng cứ .Khái niệm về chứng cứ được quy định tại khoản 1
điều 46 BLTTHS “Chứng cứ là những gì có thật ,được thu thập theo trình
tự ,thủ tục do BLTTHS quy định mà cơ quan điều tra ,viện kiểm sát và tòa
án dùng làm căn cứ để xác định có hay không hành vi phạm tội cũng như
những tình tiết khác ần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án”.Khái
niệm chứng cứ thể hiện các dấu hiệu đặc trưng của chứng cứ đó là tính
khách quan,tính liên quan và tính hợp pháp của chứng cứ .Hai dấu hiệu
đầu tiên của chứng cứ được hiểu rằng chứng cứ phải thể hiện qua những
tài liệu dưới dạng văn bản hoặc đồ vật tồn tại một cách độc lập không
phụ thuộc vào ý chí của con người tong đó chứa đựng những thông tin có ý
nghĩa trong việc làm sáng tỏ sự thật của vụ án .Riêng dấu hiệu thứ ba
của chứng cứ là “tính hợp pháp”có những vướng mắc bất cập về lý luận
cũng như thực tiễn .Theo định nghĩa trên ,chứng cứ phải được thu thập
theo trình tự ,thủ tục do BLTTHS quy định ,đó là việc thu thập chứng cứ
phải do CQTHTT thực hiện và khoản 1 điều 65 BLTTDS quy định cách thức
thu thập chứng cứ của CQTHTT ,tuy nhiên BLTTHS cũng quy định “…những
người tham gia tố tụng ,cơ quan hoặc bất cứ cá nhân ,tổ chức nào đều có
thể đưa ra tài liệu ,đồ vật và trình bày những vấn đề liên quan đến vụ
án”( khoản 2 điều 65 BLTTHS )như vậy những người tham gia tố tụng
,những cá nhân ,tổ chức khác nếu có tài liệu ,đồ vật liên quan đến vụ án
có thể giao nộp và những tài liệu đồ vật này được xem là chứng cứ hay
không là do sự đánh giá của CQTHTT (điều 78 BLTTHS) Luật sư là một bên
tranh tụng nhưng hiện nay BLTTHS không quy định cụ thể về trình tự ,thủ
tục thu thập chứng cứ .Tuy nhiên BLTTHS lại quy định quyền bình đẳng đưa
ra chứng cứ ,đồ vật ,tài liệu và tranh luận dân chủ của kiểm sát viên
,bị cáo ,người bào chữa và các chủ thể liên quan (điều 19) như vậy ,
“người bào chữa có quyền thu thập chứng cứ dưới hình thức thụ động .Đó
là người tham gia tố tụng ,cơ quan ,tổ chức ,cá nhân tự mình đưa ra đồ
vật và trình bày những vấn đề liên quan đến vụ án và cơ quan có thẩm
quyền ghi nhận” “đối người bào chữa cũng có quyền thu thập chứng cứ
nhưng chỉ giới hạn trong phạm vi nhất định họ không được quyền áp dụng
các biện pháp cưỡng chế tố tụng như điều tra viên ,kiểm sát viên hay hội
đồng xét xử”BLTTHS quy định chủ thể đánh giá chứng cứ là điều tra viên
,kiểm sát viên,thẩm phán và hội thẩm(khoản 2 điều 66)mà không có quy
định nào về đánh giá chứng cứ của người bào chữa. Nhưng BLTTHS cũng quy
định về quyền bình đẳng trong việc đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ
trước tòa và hiến pháp năm 2013 quy ddnihj nguyên tắc tranh tụng trong
xét xử được bảo đảm ,tại phiên tòa ,chủ thể buộc tội và luật sư tranh
luận ,đối đáp dưới sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa .Đặc biệt là việc
tranh luận giứa luật sư với kiểm sát viên khi luật sư đưa ra chứng cứ
phản biện các chứng cứ buộc tội ,chỉ ra những điểm mâu thuẫn ,bất hợp lý
đối với chứng cứ buộc tội và đề xuất tòa án bác bỏ ,chính là hoạt động
đánh giá chứng cứ của luật sư .Trên thực tế ,hoạt động bào chữa của luật
sư thông qua thu thập ,đánh giá và sử dụng chứng cứ để chứng minh quan
điểm pháp lý của mình là nhu cầu tất yếu để bảo đảm hiệu quả bào chữa
.Hiện nay quy định pháp luật về chứng cứ ,thu thập chứng cứ đối với chủ
thể bào chữa có những vướng mắc về lý luận và thực tiễn dân đến sự mất
cân bằng của hai phía đối trọng trong tranh tụng mà lợi thế hoàn toàn
nghiêng về chủ thể buộc tội .Sở dĩ các CQTHTT thường “thờ ơ” với chứng
cứ do luật sư cung cấp một phần do quy định của BLTTHS về khái niệm
chứng cứ ,thu thập chứng cứ như đã đề cập ở phần trên .CQTHTT có thể “từ
chối”các đồ vật ,tài liệu có ý nghĩa gỡ tội do người bị buộc tội ,người
bào chữa cung cấp với lý do “việc thu thập các đồ vật ,,không theo
trình tự luật định”nghĩa là không phải do CQTHTT thu thập
Thu thập chứng cứ là khâu đầu tiên trong
hoạt động chứng minh quan điểm bào chữa của luật sư .sau đó còn cần
phải kết hợp đánh giá và sử dụng chứng cứ .
Việc phân giai đoạn của hoạt động chứng
minh chỉ mang tính tương đói vì xuất phát từ mục đích của hoạt động bào
chữa nên ngay từ khâu thu thập chứng cứ đã có tính định hướng ,lồng ghép
trong hoạt động đánh giá chứng cứ và phán đoán sẽ sử dụng chứng cứ như
thế nào để đạt được mục đích của luật sư là bảo vệ tốt nhất quyền và lợi
ích hợp pháp của người bị buộc tội ,nguyên tắc khách quan ,toàn diện
khi giải quyết vụ án hình sj đòi hỏi các CQTHTT tong quá trình điều tra
,truy tố có nghĩa vụ thu thập đầy đủ chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ
tội .Tuy nhiên ,các chủ thể buộc tội thường trú trọng tìm kiếm chứng cứ
buộc tội mà ít để ý đến chứng cứ gỡ tội .Do đó để đảm bảo sự cân bằng
hai bên đối lập nhằm hướng đến mục tiêu tranh tụng ,luật sư có quyền tìm
kiếm chứng cứ gỡ tội để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị
buộc tội .Hoạt động bào chữa thông qua chứng minh quan điểm pháp lý của
luật sư nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội
trước cơ quan có thẩm quyền trong tố tụng hình sự thông qua hoạt động
thu thập ,đánh giá ,sử dụng chứng cứ của luật sư .Trong đó thu thập
chứng cứ là tiền đề tất yếu đối với hoạt động đánh giá và sử dụng chứng
cứ nhưng không tách bạch riêng rẽ mà tác động qua lại trong một hệ thống
.Trong khi luật sư thu thập chứng cứ gỡ tội đã lồng ghép trong đó sự
đánh giá và định hướng sử dụng chứng cứ nào ,như thế nào để có thể bảo
vệ người bị buộc tội một cách hiệu quả nhất ,trên thực tế ,không phải
trường hợp thu thập chứng cứ nào cũng nhanh chóng xác định giá trị chứng
minh và định hướng sử dụng của chứng cứ .Do đó ,nếu khi thu thập chứng
cứ có những tài liệu ,đồ vật luật sư vẫn còn nghi ngờ về giá trị chứng
minh gỡ tội thì vẫn giữ lại để sau này tiếp tục nghiên cứu ,đánh giá xem
có thể sử dụng và mục đích gỡ tội hay không .Một đồ vật ,tài liệu ,tình
tiết khi ở trạng thái đơn lẻ có thể chưa phát hiện được giá trị chứng
minh ,nhưng khi xem xét một cách hệ thống trong mối quan hệ tương tác
với một nhóm tổng thể lại phát hiện ra vấn đề và chọn lọc để sử dụng
theo mục đích của chủ thể
Đánh giá chứng cứ của một chủ thể buộc
tội và luật sư tuy khác nhau về mục đích nhưng có điểm chung đó là hoạt
động suy luận logic để giải quyết vấn đề .Chủ thể buộc tội sử dụng tư
duy logicđể xử lý thông tin thu được về vụ án ,đó là xem xét độ tin cậy
,giá trị chứng minh của từng chứng cứ cũng như tổng thể một cách hệ
thống nhằm sáng tỏ vụ án hình sự ,xác định người phạm tội .Hoạt động bào
chữa của luật sư đối kháng với chủ thể buộc tội song song với việc tìm
kiếm những chứng cứ có lợi cho người bị buộc tội nhằm chứng minh quan
điểm pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ còn thể hiện qua
việc phản biện các chứng cứ buộc tội nhằm đưa ra các đề xuất ,kiến
nghị có lợi cho người bị buộc tội .Luật sư chỉ cần chứng minh tội phạm
của chủ thể buộc tội thiếu một trong 4 yếu tố cấu thành tội phạm đối với
tội danh mà người bị buộc tội bị truy tố thì có nghĩa là người bị buộc
tội không phạm tội
Hoạt động bào chữa của luật sư còn thể
hiện qua việc phản biện ngay các chứng cứ buộc tội ,chỉ ra những mâu
thuẫn bất hợp lý của các chứng cứ buộc tội ,vô hiệu hóa những chứng cứ
buộc tội do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hoặc được thu thập bằng
cách thức bất hợp pháp thông qua việc kiến nghị loại trừ các chứng cứ
này.Như vậy ,hoạt động bào chữa của luật sư không chỉ thể hiện qua việc
đánh giá các chứng cứ do chính mình thu thập và hoạt động này diễn ra
liên tục ,xuyên suốt các giai đoạn tố tụng hình sự kể từ khi luật sư
tham gia vụ án ,hoạt động bào chữa thông qua việc thu thập ,đánh giá ,sử
dụng chứng cứ là khâu cuối cùng .Trên cơ sở các chứng cứ đã có ,luật sư
đánh giá và lựa chọn những chứng cứ có giá trị chứng minh hiệu quả nhất
để bảo vệ người bị buộc tội trước sự buộc tội nên trước khi chọn lựa sử
dụng chứng cứ nào để đạt được mục đích ,không thể thiếu hoạt động đánh
giá chứng cứ .Do đó đối với hoạt động bào chữa của luật sư thì hoạt động
đánh giá chứng cứ do luật sư thu thập được luôn luôn đồng hành cùng với
hoạt động sử dụng chứng cứ đồng thời phải bảo đảm trật tự nhất định mà
không thể đảo ngược .Đó là,đánh giá chứng cứ trước ,sau đó chọn lựa
việc sử dụng chứng cứ nào có thể mang lại hiệu quả nhất .Nếu không đánh
giá chứng cứ hoặc có sai lầm trong việc đánh giá chứng cứ và sử dụng
chứng cứ đó làm cơ sở cho quan điểm pháp lý của mình thì thất bại là
điều khó tránh.
Công ty Luật Dragon
Những luật sư giỏi và tiêu biểu hàng đầu thế giới
Trong lịch sử phát triển của
nhân loại, đã có nhiều luật sư giỏi được vinh danh bởi những đóng góp
của họ mang lại sự thay đổi lớn lao cho xã hội. Dưới đây là 10 cái tên
luật sư vĩ đại trong lịch sử.
1. John Adams (1735-1826)
John Adams – Phó tổng thống
đầu tiên và là Tổng thống thứ hai của Hoa Kỳ, là người đã đứng lên chống
lại chế độ nô lệ ở quốc gia này. Ông đã mang đến sự đổi thay toàn diện
đối với chế độ thực dân và hệ thống pháp luật Hoa Kỳ lúc bấy giờ. Ông
cũng là luật sư đứng lên bảo vệ và bào chữa vô tội cho những binh lính
Anh trong cuộc thảm sát ở Boston năm 1770.
2. Clare Foltz (1849-1934)
Là biểu tượng của các luật sư nữ trên thế giới, Foltz được biết đến là nữ luật sư giỏi
đầu tiên của khu vực Bờ biển Tây nước Mỹ. Bà đã khởi kiện trường Luật
Hastings vì phân biệt đối xử (không chấp nhận cho bà theo học vì lý do
giới tính). Pháp luật Bang California đã phải sửa đổi để cho phép tất cả
mọi người, bất kể nam hay nữ, thuộc bất kỳ chủng tộc hoặc dân tộc nào
tham gia đoàn luật sư sau khi vượt qua kỳ thi tuyển luật sư.
3. Abraham Lincoln (1809-1865)
Không chỉ nổi tiếng nhờ cuộc
đấu tranh của ông đối với chế độ nô lệ, Lincoln còn là một luật sư nổi
tiếng ở bang Illinois. Vị Tổng thống thứ 16 của nước Mỹ này cũng đã giải
quyết rất nhiều vụ án khác nhau trên 20 năm. Ông cũng đã trở thành một
trong những tổng thống thành công nhất của Hoa Kỳ.
4. Mohandas Karamchand Gandhi (1869-1948)
Tên thường gọi là Mahatma
Gandhi. Bằng phương pháp đấu tranh bất bạo động, Gandhi đã dẫn khởi nền
độc lập Ấn Độ, đưa nước mình thoát khỏi sự đô hộ của Anh, khích lệ những
người dân bị đô hộ khác phấn đấu cho nên độc lập của nước nhà và đả đảo
triệt để đế quốc Anh. Ông tốt nghiệp Khoa luật Đại học College London
(một trường thuộc Đại học London) và bắt đầu hành nghề tại London vào
năm 1800, sau đó chuyển sang Nam Phi. Ông tham gia vào các vụ kiện dân
sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người di dân Ấn Độ. Từ lúc lãnh
đạo cuộc đấu tranh giành tự do và đứng đầu đảng Quốc dân Đại hội Ấn Độ
năm 1918, ông được hàng triệu người dân Ấn Độ gọi một cách tôn kính là
Mahatma.
5. Sir Thomas More (1478-1535)
Thomas More là một luật sư,
nhà triết học xã hội, tác giả, chính khách và nhà nhân văn nổi tiếng
thời Phục Hưng. Trước khi bị xử quyết bởi nhà vua Henry VIII vì đã không
công nhận thẩm quyền của Nhà thờ ở Anh, Sir Thomas More là Đại pháp
quan (Lord Chancellor) và cũng là cố vấn quan trọng của nhà vua. Ông là
một người thẳng thắn, trung thực và kiên trì với tư tưởng luật pháp của
mình.
6. Thurgood Marshall (1908-1993)
Bị Đại học
Luật Maryland từ chối vì màu da của mình, Marshall vẫn kiên trì với sự
nghiệp học tập. Ông nổi tiếng vì đã giúp Ghana và Tanzania soạn thảo bộ
hiến pháp của riêng họ. Trước khi trở thành một thẩm phán ông là một
luật sư nổi tiếng với tỷ lệ thành công cao trong tranh cãi trước Toà án
tối cao Hoa Kỳ.
7. Alan Dershowitz (SN 1938)
Tham gia
vào một số vụ án như Patty Hearst, O.J Thompson or Mike Tyson,
Dershowitz là một luật sư nổi tiếng chuyên bảo vệ quyền lợi của cá nhân.
Ông tốt nghiệp Đại học Luật Yale và trở thành giáo sư luật trẻ nhất
xuyên suốt lịch sử của trường ở tuổi 28. Ông là một học giả nổi tiếng về
luật hiến pháp Hoa Kyf và luật hình sự.
8. Nelson Mandela (1918-2013)
Mandela hành nghề luật sư
trước khi trở thành Tổng thống của Nam Phi. Ông tốt nghiệp trường Đại
học Wiwatersrand và bắt đầu chiến dịch bảo vệ quyền con người và sự
thống nhất đất nước. Ông lãnh đạo các hoạt động chống chủ nghĩa tách
biệt chủng tộc ở Nam Phi và đã chiến thắng. Mandela đã được nhận 250
giải thưởng trong hơn bốn thập niên, trong đó có giải Nobel Hoà bình năm
1993.
9. Thomas Jefferson (1743-1826)
Là Tổng thống thứ 3 của Hoa Kỳ, người sáng lập ra Đảng Dân chủ – Cộng hoà Hoa Ky (Democratic – Republican Party)
và là một trong những người theo chủ nghĩa tự do nhiệt thành lớn nhất
thời cận đại. Thuở nhỏ, ông học ở quê nhà, rồi sau đó vào trường Đại học
Willian &Mary (1760-1762). Năm 23 tuổi, ông trở thành luật sư. Ông
là người đã viết Tuyên ngôn Độc lập Mỹ và thiết lập nền tảng cho hệ
thống pháp luật Mỹ).
10. Sadie Alexander (1898-1989)
Tốt nghiệp trường Đại học
Pennsylvania, Sadie là người phụ nữ Hoa Kỳ đầu tiên có bằng tiến sĩ. Bà
cũng là người da đen đầu tiên tham gia vào Đoàn luật sư Pensylvania.
TGLS
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)